Các tác phẩm của bà, đa phần là tiểu thuyết ngắn, phá vỡ chủ nghĩa hiện thực của những nhà văn Trung Quốc hiện đại trước đó. Bà cũng viết tiểu thuyết dài, truyện ngắn và phê bình văn học về Dante, Jorge Luis Borges, Franz Kafka.
Tàn Tuyết đã dành gần 20 năm làm công nhân, thợ may và bác sĩ, nhưng bà không bao giờ từ bỏ niềm đam mê văn chương của mình và năm 1985 xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên Hoàng Nê Phố (Phố Bùn Vàng).
Giống như các tác phẩm khác,Hoàng Nê Phốcó tính biểu tượng cao, được biết đến như cuốn tự truyện về thế giới nội tâm của bà, không dễ dàng được độc giả Trung Quốc chấp nhận và hiểu rõ trong thời kỳ đó, báo Trung Quốc China Daily đưa tin. Nhưng Tàn Tuyết chưa bao giờ ngừng theo đuổi phong cách riêng của mình.
“Vật lộn bên bờ vực cái chết”
Tàn Tuyết tên thật là Đặng Tiểu Hoa, sinh năm 1953, tại tỉnh Hồ Nam trong một gia đình có 6 người con. Bố bà từng là Tổng biên tập Nhật báo Hồ Nam mới.
Biến cố gia đình xảy ra, mẹ và hai anh trai phải về nông thôn, bà được ở lại thành phố vì sức khỏe yếu. Sau khi bị buộc rời khỏi túp lều nhỏ, ở tuổi 13, bà phải sống một mình trong căn phòng nhỏ, tối tăm dưới gầm cầu thang. Hoàn thành chương trình tiểu học xong, việc học chính thức của bà bị gián đoạn,
Tàn Tuyết mô tả chi tiết những ngày khốn khổ thời thơ ấu trong cuốn hồi ký có tựa đề A Summer Day in the Beautiful South(tạm dịch: Một ngày hè ở miền Nam tươi đẹp) được dùng làm lời tựa cho tuyển tập truyện ngắn Dialogues in Paradise(tạm dịch: Đối thoại ở thiên đường).
Trong suốt thời gian này, cả gia đình bà “vật lộn bên bờ vực cái chết”, thiếu đói trầm trọng, phải ăn cả quần áo len để sinh tồn. Tàn Tuyết mắc bệnh lao nặng. Sau đó, bà làm thợ kim loại. Mười năm sau, năm 1980, sau khi sinh con trai đầu lòng, bà nghỉ việc ở nhà máy. Bà và chồng tự học may vá rồi mở hiệu tại nhà.
Tàn Tuyết bắt đầu viết văn vào năm 1983 và xuất bản truyện ngắn đầu tiên Bong bóng xà phòngtrong nước bẩnvào tháng 1/1985. Cùng năm đó, bà viết thêm hai truyện ngắn là Bò đựcvà Túp lều trên đồi.
Lúc này bà chọn bút danh Tàn Tuyết. Cái tên có thể được hiểu là lớp tuyết cứng đầu, bẩn thỉu còn sót lại vào cuối mùa đông hoặc phần tuyết còn sót lại trên đỉnh núi sau khi tuyết đã tan gần hết.
Xuất bản dưới bút danh cho phép, Tàn Tuyết viết mà không tiết lộ giới tính của mình. Theo ông Lu Tonglin, Giáo sư Văn học so sánh tại Đại học Montreal (Canada), khi các nhà phê bình phát hiện Tàn Tuyết là phụ nữ, họ cảm thấy khó chịu. Một số người thậm chí còn cho rằng đầu óc bà có vấn đề.
Năm 2002, bà kể: “Rất nhiều nhà phê bình ghét tôi, hoặc ít nhất họ chỉ im lặng, hy vọng tôi sẽ biến mất. Không ai thảo luận về tác phẩm của tôi, vì họ không đồng ý hoặc không hiểu”. Tuy nhiên, sau đó, nhiều nhà phê bình bắt đầu ca ngợi tác phẩm của Tàn Tuyết.
Phong cách trừu tượng, hình thức kể chuyện độc đáo
Phong cách trừu tượng và hình thức kể chuyện độc đáo của Tàn Tuyết thu hút rất nhiều sự chú ý của các nhà phê bình trong những năm 1990. Có không ít cách giải thích khác nhau về tác phẩm của bà đã được xuất bản.
Nhiều người liên tưởng các hình ảnh, câu truyện trong một số truyện ngắn đầu tiên của bà với vấn đề chính trị. Nhưng Tàn Tuyết phủ nhận trong một cuộc phỏng vấn rằng: “Không có mục đích chính trị nào trong tác phẩm của tôi”.
Nữ nhà văn coi mỗi câu chuyện như một loại thử nghiệm cuộc sống mà bà là chủ đề: “Trong những tầng rất sâu, tất cả các tác phẩm của tôi đều là tự truyện”.
Tàn Tuyết cũng viết một phần lời nhạc kịch cho ít nhất một vở opera. Năm 2010, bà cùng Lin Wang đồng sáng tác lời nhạc kịch cho vở opera thính phòng đương đại Die Quelle. Vở kịch dựa trên truyện ngắn Cuộc sống hai mặtđã xuất bản của Tàn Tuyết.
Thành tựu
Các tác phẩm của Tàn Tuyết thường được so sánh với những buổi biểu diễn, khiêu vũ hoặc nghệ thuật thị giác.
Tiểu thuyết gia và biên tập viên người Mỹ Bradford Morrow mô tả bà là một trong những tác giả “sáng tạo nhất và quan trọng nhất” trong văn học thế giới đương đại, báo MỹThe New Yorkerđưa tin.
Tàn Tuyết đã xuất bản một số lượng lớn tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận phê bình, nhiều cuốn trong số đó đã được dịch sang tiếng Anh.
Tiểu thuyết, truyện dài của bà gồm có: Phố Ngũ Hương, Người tình cuối cùng, Biên giới, Những chuyện tình thế kỷ mới, Bác sĩ chân trần, Đám mây trôi cũ, Hoàng Nê Phố (Phố Bùn Vàng), Cây táo ở hành lang, Chuyến tàu bí ẩn…
Với tiểu thuyết Người tình cuối cùng, Tàn Tuyết giành Giải thưởng Sách dịch hay nhất năm 2015. Đây là một giải thưởng văn học của Mỹ.
Tiểu thuyết Những chuyện tình thế kỷ mớiđược trao Giải Sách Quốc tế (International Booker Prize) năm 2019. Đây là giải thưởng văn học quốc tế do nước Anh chủ trì.
Tác phẩm Tôi sống trong khu ổ chuột của bà đoạt Giải Sách Quốc tế năm 2021.
Một số tác phẩm của Tàn Tuyết được dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam như tập truyện ngắn Đào nguyên ngoài cõi thế, hai truyện dài Hoàng Nê phốvà Bảng lảng trời xanh, tiểu thuyết Những chuyện tình thế kỷ mới… Tác phẩm Phố Ngũ Hươngcũng sắp được xuất bản bằng tiếng Việt.
Ngoài Tàn Tuyết, những nhà văn có khả năng đoạt giải Nobel Văn chương 2023 còn có Haruki Murakami (Nhật Bản), Jon Fosse (Na Uy), Gerald Murnane (Úc), Anne Carson (Canada), Ludmila Ulitskaja (Nga), Mircea Cartarescu (Romania), Ngugi wa Thiong’o (Kenya), Thomas Pynchon (Mỹ), Cesar Aira (Argentina)… |
Linh Nhi
Chia sẻ với VietNamNet, bà Lê Thị Thu Hiền - Cục trưởng Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cho biết có thể có sự nhầm lẫn trong cách gọi vì nước mắm là ẩm thực hiện hữu, không thể gọi là di sản văn hoá phi thể. Còn đề nghị nghề làm nước mắm là di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam thì cũng cần có tiến trình.
Bà Hiền cho biết thêm, tháng 5/2021 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trao bằng chứng nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nghề thủ công truyền thống tri thức dân gian Nghề làm nước mắm Phú Quốc. Tháng 7/2020, Nghề làm nước mắm ở Nam Ô, Đà Nẵng đã được ghi danh vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, xây dựng thương hiệu cho ẩm thực có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một địa phương nói riêng, quốc gia nói chung. Vì thế, nếu chúng ta xây dựng được bất kỳ một thương hiệu ẩm thực nào, không kể là nước mắm, phở, nem... đều rất có giá trị để quảng bá hình ảnh của không chỉ món ẩm thực đó, mà còn cả lịch sử, truyền thống văn hóa, đất nước và con người Việt Nam đến toàn thế giới, biến những giá trị này thành động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Ông Sơn cho biết, trên thế giới đã có một số nghệ thuật ẩm thực được UNESCO ghi danh như văn hóa bia Bỉ, nghệ thuật làm bánh pizza Napoli... Điều đó cho thấy, sáng kiến của Việt Nam không phải ngoại lệ và cũng là một trong những ưu tiên của UNESCO.
Tuy nhiên, nếu lựa chọn nước mắm để đề nghị là văn hoá phi vật thể thì không được bởi UNESCO có những tiêu chí rõ ràng. Trong đó, di sản văn hoá phi vật thể phải gắn với cộng đồng cụ thể, đáp ứng những tiêu chí như: Yếu tố cần thiết để thể hiện sự đa dạng của di sản văn hóa và sức sáng tạo của con người; Di sản là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp; Yếu tố cung cấp bằng chứng về truyền thống, tập quán văn hóa của một cộng đồng cần được ghi chép và bảo vệ; Yếu tố góp phần phát triển bền vững kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng.
“Chúng ta cũng cần hiểu, UNESCO định nghĩa: Di sản văn hóa phi vật thể đề cập đến các tập quán, cách thể hiện, kiến thức và kỹ năng mà cộng đồng, nhóm và cá nhân công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Không giống như di sản vật thể, chẳng hạn như các hiện vật hoặc công trình kiến trúc, di sản văn hóa phi vật thể được truyền miệng, thông qua các nghi lễ, biểu diễn, tập quán xã hội, nghề thủ công truyền thống và các hình thức sáng tạo khác của con người. Nó đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành bản sắc văn hóa, thúc đẩy sự gắn kết xã hội và thúc đẩy sự đa dạng văn hóa. Ví dụ về di sản văn hóa phi vật thể bao gồm truyền thống, truyền miệng, nghệ thuật biểu diễn, nghề thủ công truyền thống, nghi lễ, tập quán xã hội, sự kiện lễ hội và hệ thống tri thức…
Chúng ta cũng đã ghi danh Nghề làm nước mắm Phú Quốc, Nam Ô vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là cơ sở vững chắc để tiếp tục làm hồ sơ này đề nghị UNESCO ghi danh theo đúng trình tự”, ông Sơn khẳng định.