Chiến dịch “Mãnh liệt Tinh thần Việt Nam - Vì Tương lai Xanh” do Tập đoàn Vingroup phát động đang tạo tiếng vang lớn trong cộng đồng. Lời kêu gọi của người dân Việt cùng chung sức phát triển thương hiệu xe điện Việt đẳng cấp quốc tế, góp phần mạnh mẽ vào quá trình chuyển đổi xanh của đất nước đã nhận được sự đồng hành và ủng hộ của nhiều doanh nghiệp cũng như đại diện các Bộ, ngành, đơn vị.
Chương trình đầy ý nghĩa của Vingroup được TS. Lê Xuân Nghĩa đánh giá cao.
Đánh giá về sự kiện này, TS. Lê Xuân Nghĩa, Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, cho biết: “Đây là chương trình rất ý nghĩa, là hành động mang tính tiên phong của Vingroup hướng tới kinh tế xanh và tăng trưởng xanh. Chưa có doanh nghiệp nào làm được như Vingroup, đó là nhìn thẳng vào vấn đề chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi xanh trong giao thông, giúp cho mục tiêu Net-zero của Chính phủ trở nên hiện thực hơn”.
Đáng nói, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, Vingroup không chỉ tuyên bố hay phát động chung chung mà đã dùng chính nguồn lực tài chính của mình, đưa ra những chính sách cụ thể để giúp xe điện trở nên dễ tiếp cận hơn với mọi người dân.
Vingroup đã huy động toàn bộ hệ sinh thái để thúc đẩy công cuộc chuyển đổi xanh.
Bằng chứng là Vingroup đã huy động toàn bộ hệ sinh thái vào công cuộc chuyển đổi xanh. Với ô tô điện, người dùng sẽ được miễn phí hầu hết chi phí sử dụng xe hàng ngày, từ miễn phí tiền sạc xe 1 năm tại các trạm sạc V-GREEN, gửi xe miễn phí dưới 5 tiếng tại mọi địa điểm thuộc hệ sinh thái Vingroup tới hỗ trợ tiền lắp trụ sạc và tiền điện khi sạc tại nhà…
Ngoài ra, để thiết thực cổ vũ người dân sở hữu và sử dụng xe điện, Vingroup công bố đặc quyền VIP và luồng phục vụ dành riêng cho các chủ xe điện VinFast khi sử dụng dịch vụ trong hệ sinh thái của Tập đoàn.
“Việc làm này rất ý nghĩa, thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đầu tàu của nền kinh tế”, TS Nghĩa nói.
Cùng chung quan điểm, PGS.TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam khẳng định, Vingroup không chỉ phát động phong trào, mà thêm cam kết, gắn với nhiều hành động và kết quả thực tế. “Những hành động đó có giá trị lan tỏa. Những kết quả thực tiễn đó cũng được ghi nhận ở tầm xã hội. Giá trị đó chính là giá trị tương lai cho Việt Nam, gắn lợi ích hài hòa giữa xã hội, doanh nghiệp và người dân” - PGS.TS Trần Đình Thiên nhận định.
“Cùng hành động, thách thức sẽ thành cơ hội”
Những hành động thiết thực, nỗ lực tiên phong chuyển đổi xanh của Vingroup và VinFast được giới chuyên gia đánh giá cao. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cho rằng, giải quyết bài toán ô nhiễm hay xây dựng tương lai xanh là trách nhiệm chung của toàn xã hội.
“Chuyển đổi xanh không thể chỉ là hành động đơn lẻ, đơn độc của từng doanh nghiệp. Nó cần sự chung tay của cộng đồng doanh nghiệp ở tất cả các lĩnh vực, của mỗi người dân.” - PGS.TS Trần Đình Thiên khẳng định.
Ở góc độ chuyên gia môi trường, TS Hoàng Dương Tùng – nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam, cho rằng, trong bối cảnh ô nhiễm không khí đã và đang trở thành mối đe dọa lớn nhất cho sức khỏe và tương lai của nhân loại, việc chuyển sang các phương tiện chạy điện là một hướng đi rất đúng đắn.
"Tôi hy vọng chiến dịch này sẽ truyền cảm hứng để cộng đồng chung tay, bắt đầu từ những việc thay đổi thói quen khi di chuyển, sử dụng những phương tiện xanh mang lại bầu trời xanh cho tất cả chúng ta", TS Tùng chia sẻ tại lễ phát động chiến dịch “Mãnh liệt tinh thần Việt Nam – Vì tương lai xanh” của Vingroup.
Đặc biệt, theo nhận định của giới chuyên gia, những hành động quyết liệt của Vingroup trong việc thúc đẩy hơn nữa xu hướng sử dụng xe điện, không chỉ có giá trị kiến tạo môi trường xanh, sạch cho các thế hệ sau mà còn xây dựng nên một thương hiệu Việt đẳng cấp quốc tế.
Phân tích về lợi ích, TS Trần Đình Thiên cho rằng, việc đất nước có một thương hiệu Việt đẳng cấp thế giới thì lợi ích đem lại sẽ không giới hạn với riêng VinFast hay doanh nghiệp riêng lẻ nào mà là "tất cả những gì gắn với hai từ Việt Nam", đặc biệt là các sản phẩm "Made in Vietnam" trên thị trường quốc tế.
Sự chung tay của nhiều nguồn lực xã hội chính là cơ hội để đạt được những mục tiêu về chuyển đổi xanh.
Cụ thể hơn, xây dựng được thương hiệu Việt có nghĩa là tạo uy tín và lợi thế, tạo điều kiện để hàng hóa Việt Nam dễ dàng đến với thế giới, giúp tạo ra giá trị quốc gia, và xa hơn là tăng thêm niềm tự hào dân tộc. Những doanh nghiệp tiên phong như VinFast sẽ tạo nguồn cảm hứng, động lực thúc đẩy cộng đồng doanh nghiệp Việt liên kết và tiến ra biển lớn.
Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cũng nhắc đến những hành trình xây dựng thương hiệu quốc gia của Nhật Bản và Hàn Quốc. Kết quả ngày hôm nay của những nền kinh tế này xuất phát từ khát vọng vươn lên và sự đồng lòng của cả dân tộc, từ chính phủ đến từng người dân. Việt Nam là đất nước đi sau, muốn xây dựng những thương hiệu quốc tế càng cần có tinh thần như vậy.
"Người làm, người không làm thì tính thách thức hiện ra ngay. Khi ta cùng hành động thì sự thách thức ấy lại thành cơ hội, thành lợi ích", TS Trần Đình Thiên khẳng định.
Hà An" alt=""/>Chuyên gia: 'Mỗi người dân cần chung tay vì một Việt Nam xanh'Tổng lượng khí thải CO2 thường được tính toán thông qua các dữ liệu như có bao nhiêu người, mức tiêu thụ năng lượng, hiệu quả sử dụng năng lượng và mức thải CO2 của năng lượng.
Lượng khí thải hàng không tăng mạnh trong hơn 50 năm qua cùng với nhau cầu sử dụng vận tải của con người ngày càng lớn.
Ngành hàng không thải ra 1 tỷ tấn CO2
Hiệu quả đã được cải thiện, nhưng nhu cầu toàn cầu ngày càng tăng dẫn đến lượng khí thải cao hơn. Để tính toán lượng khí thải carbon từ hàng không cần ba số liệu:
Một là,nhu cầu hàng không, bao nhiêu km hành khách và hàng hóa.
Hai là,hiệu quả năng lượng, bao nhiêu năng lượng được sử dụng trên mỗi km.
Ba là,cường độ carbon: Loại nhiên liệu nào đang được sử dụng, cho chúng ta biết lượng carbon thải ra trên một đơn vị năng lượng.
Nhân các số liệu này với nhau và chúng ta thu được lượng khí thải CO2.
Từ năm 1990 đến năm 2019, nhu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách hàng không đã tăng gần gấp bốn lần. Tính đến năm 2019, số hành khách của ngành hàng không di chuyển hơn 8 nghìn tỷ km, tương đương với một năm ánh sáng.
Cùng với sự tiến bộ của công nghệ, năng lượng tiêu hao cho một km bay từ năm 1990 là 2,9MJ đến nay đã giảm xuống còn 1,3 MJ. Tuy nhiên lượng CO 2 được thải ra trên một đơn vị - hoàn toàn không thay đổi. Điều này một phần đến từ nhiên liệu của máy bay hiện nay gần như không khác biệt với năm 1990, bao gồm cả nhiên liệu sinh học.
Nếu một km bay vào năm 1990 thải ra 357g CO2 thì đến năm 2019 con số này giảm xuống còn 157g. Thế nhưng nhu cầu vận tải hàng không lại tăng gấp 4 lần điều này đồng nghĩa với việc lượng khí thải đã tăng gấp đôi.
Có thể thấy rõ vấn đề này qua số liệu ngành hàng không toàn cầu thải ra khoảng 0,5 tỷ tấn CO2 vào năm 1990. Con số này vào năm 2019 khoảng 1 tỷ tấn.
Số liệu khí thải của ngành hàng không toàn cầu từ năm 1940 đến năm 2019. (Nguồn: OurWorldInData)
Lượng khí thải của ngành hàng không tăng gấp 4 lần
Theo thống kê dữ liệu hàng không từ giữa năm 1960 cho đến nay, lượng khí thải của ngành này thải ra môi trường tăng gấp bốn lần. Từ năm 2019, ngành hàng không chiếm 2,5% lượng khí thải CO2 từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch được con người sử dụng, con số này trong năm 1990 chỉ khoảng 2% và tăng dần theo từng năm.
Ngoài ra ngành hàng không cũng chiếm khoảng 4% nguyên nhân gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu.
Cùng với việc thải ra CO2 từ việc đốt nhiên liệu, máy bay còn ảnh hưởng đến nồng độ các loại khí và chất ô nhiễm khác trong khí quyển. Chúng tạo ra sự gia tăng ngắn hạn nhưng lại làm giảm lượng ozone và khí mê-tan trong thời gian dài, đồng thời tăng lượng phát thải hơi nước, bồ hóng, khí lưu huỳnh. Trong khi một số tác động này dẫn đến sự nóng lên, những tác động khác lại gây ra hiệu ứng làm mát.
Mặc dù khí thải CO2 được chú ý nhiều nhất nhưng nó chỉ chiếm chưa đến một nửa nguyên nhân gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu, các yếu tố còn lại chiếm phần nhiều như vệt khói và hơi nước từ khí thải máy bay - chiếm tỷ trọng lớn nhất. Điều này giải thích tại sao hàng không đóng góp 2,5% lượng khí thải CO2 hàng năm nhưng tác động của nó đối với sự nóng lên toàn cầu lại lớn hơn.
Tỷ lệ phát thải toàn cầu của ngành hàng không có thể sẽ tăng lên khi các lĩnh vực khác giảm mức phát thải khí CO2 trong tương lai. Có thực tế khác là hàng không là một trong những lĩnh vực khó giảm phát thải cacbon nhất. Điện có thể trở thành nguồn điện có hàm lượng carbon thấp thông qua việc triển khai năng lượng tái tạo và hạt nhân; vận tải đường bộ và sưởi ấm thông qua điện khí hóa. Ngay cả những ngành công nghiệp “khó giảm bớt” như xi măng và thép cũng đang nổi lên những lựa chọn thay thế.
Trong khi đó, ngành hàng không gần như không có sự lựa chọn nào khác. Nhu cầu toàn cầu có thể sẽ tăng trong những thập kỷ tới khi dân số ngày càng giàu hơn. Do đó, sự gia tăng lượng khí thải sẽ được xác định bằng việc liệu ngành hàng không có thể duy trì những cải thiện về hiệu quả sử dụng năng lượng và chuyển sang sử dụng nhiên liệu có hàm lượng carbon thấp hay không. Cho đến nay, lĩnh vực này hầu như không đạt được tiến bộ nào về mặt kỹ thuật.
Mặc dù các máy bay ngày càng ít tiêu thụ nhiên liệu hơn có thể làm giảm phần nào sự gia tăng lượng khí thải nhưng chúng không thể loại bỏ chúng hoàn toàn. Để làm được điều đó, ngành công nghiệp hàng không sẽ cần chuyển từ nhiên liệu máy bay sang điện khí hóa, nhiên liệu sinh học, hydro hoặc kết hợp. Cho đến khi thực hiện chuyển đổi này, ngành hàng không sẽ sớm dẫn đầu trong tỷ lệ phát thải toàn cầu.
Trà Khánh" alt=""/>Ngành hàng không tạo ra bao nhiêu khí thải CO2?